Triton thế hệ thứ 5 là sự lột xác hoàn toàn về kích thước, tính năng nội, ngoại thất và khả năng vận hành so với phiên bản cũ ra mắt thị trường Việt Nam vào năm 2009. Nhưng để lấy lại vị thế của nó trên thị trường bán tải, không phải là chuyện một sớm một chiều với Mitsubishi.
Trước kia, khi nói đến dòng xe bán tải người nghe thường hình dung ra một chiếc xe có cabin đôi hoặc cabin đơn, chạy máy dầu, có thể chở khoảng 4 đến 5 người phía trước và hàng hóa ở thùng sau, cách âm kém, không thời thượng trong thiết kế, không có nhiều tiện ích bên trong và thường hoạt động ở những nơi có địa hình khó…
Thế nhưng những năm gần đây, để bắt kịp xu thế mới, các kĩ sư đã tập trung biến một chiếc xe thô kệch trở nên “đa dụng”: trang nhã, thanh lịch có thể đi trong phố nhưng vẫn giữ được tính bền bỉ, mạnh mẽ khi phải vượt qua nhiều địa hình khác nhau.
Mặt khác, xe bán tải còn là lựa chọn thông minh cho những ai ở đô thị muốn sở hữu một chiếc xe gầm cao dùng được hai mục đích: đi lại hàng ngày và chở đồ đạc khi cần thiết. Chưa kể, thuế trước bạ cho hạng xe bán tải chỉ 2%. Rõ ràng, bán tải đang chiếm được ưu thế rất lớn.
Trở lại với Triton, khi lần đầu xuất hiện vào năm 2009 mẫu xe bán tải này nhanh chóng chiếm được cảm tình của người tiêu dùng Việt nhờ kiểu dáng thể thao, thanh lịch. Với lần trở lại này, mẫu xe thế hệ thứ 5 của Mitsubishi sở hữu hàng loạt các cải tiến lớn về nội, ngoại thất cũng như công nghệ tân tiến chứng tỏ tham vọng chiếm lĩnh thị trường bán tải của hãng xe xứ phù tang.
Ngoại hình
Về tổng thể, Triton mới có một vóc dáng cao và dài hơn so với phiên bản cũ với các số đo 5280x1815x1780 mm. Nếu xếp chung với đối thủ Nissan Navara NP300 ra mắt trước đó không lâu thì Triton được nhiều cái hơn: Dài hơn, rộng hơn, độ nghiêng ghế sau tốt hơn nhờ thiết kế mới.
Triton không sở hữu những đường nét cứng cáp, chắc chắn như Navara mà thay vào đó là nhiều đường nét bo tròn. Điểm đặc biệt là phần đầu xe không còn vẻ lành tính như Triton phiên bản cũ trước đây mà thay vào đó là mặt lưới tản nhiệt lớn mạ crom 12 nan đi kèm với cụm đèn pha Bi-Xenon tích hợp dải LED chiếu sáng ban ngày chạy dọc theo thân xe. Navara và Triton là hai mẫu xe đầu tiên trong phân khúc được trang bị đèn LED.
Triton là mẫu xe thứ 2 sau Navara được trang bị dải đèn LED chiếu sáng ban ngày.
Gương chiếu hậu lớn mạ crom tích hợp đèn báo rẽ cho tầm quan sát rộng. Điểm nhấn trong thiết kế của Triton là thiết kế J-line. J-line là đường phân cách có hình dáng giống chữ J giữa khoang hành khách và thùng sau, nó giúp cho hàng ghế sau có độ nghiêng tốt nhất (25 độ) so với các xe khác trong cùng phân khúc.
Nội thất đơn giản
Bước vào trong xe có thể thấy đội ngũ thiết kế của Mitsubishi đã khoác lên nội thất Triton thế hệ thứ 5 một bộ cánh mới mang hơi hướng sedan hóa nhưng không quên tính thực dụng vốn có của Mitsubishi. Hơn thế nữa, yếu tố đơn giản trong nội thất có lẽ là truyền thống của Mitsubishi, khi mẫu Outlander Sport cũng được thiết kế với style chung là đơn giản và có phần hơi nhạt nhẽo.
Toàn bộ nội thất được bọc da theo tông màu đen. Ghế lái chỉnh điện 8 hướng. Vô lăng 3 chấu bọc da tích hợp lẫy chuyển số thể thao, hệ thống giám sát hành trình và phím điều chỉnh âm thanh, các tiện ích này chỉ có trên bản 4x4AT, chức năng đàm thoại rảnh tay không được lắp đặt nên cũng khá bất tiện.
Xe được trang bị chìa khóa thông minh, phím khởi động Start/Stop Engine. Chỉ có điều hòa tự động 2 vùng cho hàng ghế trước còn hàng ghế sau không có chi tiết này. Hệ thống giải trí DVD với 6 loa kết nối Bluetooth, USB, AUX.
Vận hành
Triton sử dụng động cơ dầu 2.5 lít công nghệ điều khiển tăng áp biến thiên VGT High Power cho công suất cực đại tại 178 mã lực tại vòng tua 4000 vòng/phút, momen xoắn cực đại đạt 400 Nm tại vòng tua 2000 vòng/phút. Đi kèm hộp số tự động 5 cấp.
Nhẹ nhàng ấn nút khởi động, động cơ 2.5L High Power cho cảm giác rung nhẹ, nhả chậm chân phanh, chiếc xe bắt đầu từ từ lăn bánh ra đường. Vô lăng trợ lực dầu cho cảm giác chắc chắn đúng nghĩa của một chiếc bán tải.
Điều đầu tiên có thể thấy là gương hậu mạ crom to bản cho góc quan sát khá rộng nhưng một nhược điểm bộc lộ ngay sau đó là trụ A trên xe khá to tạo một điểm mù lớn khiến người lái luôn phải nhấp nhổm khi đi vào giao lộ.
Giữ ga ở tốc độ 30-40 km/h xe chứng tỏ khá năng cách âm khá tốt khi không có nhiều tạp âm dội vào khoang lái. Vô lăng trợ lực dầu truyền thống cho cảm giác chắc chắn khi cầm, an toàn khi chạy tốc độ cao.
Dù là máy dầu nhưng xe lại tăng tốc khá nhanh. Với chiều dài 5,280 m và bán kính quay vòng nhỏ nhất trong phân khúc xe bán tải (5,9m), Triton không gặp quá nhiều trở ngại khi phải quay đầu trên đường chật chội. Do không được tích hợp camera lùi trên xe nên người lái gặp khá nhiều khó khăn khi phải lùi vào đường hẹp.
Là một chiếc bán tải nên Mitsubishi trang bị cho đứa con cưng của mình hệ truyền động Super Select II với 4 chế độ vận hành (2H, 4H, 4HLc, 4LLc) cùng nút gài cầu điện tử và điểm đặc biệt nhất là khóa vi sai trung tâm tăng khả năng chống trượt và gia tăng sức kéo trên mặt đường trơn trượt.
Khác với Navara, Triton thế thệ 5 chỉ được trang bị hệ thống chống bó cứng phanh ABS, hệ thống phân bố lực phanh điện tử EBD. Các tính năng khác như hỗ trợ khởi hành ngang dốc, camera lùi không được lắp đặt trên chiếc bán tải này.
Đánh giá
Như những gì đã nói ở trên, sự ra đời của thế hệ bán tải mới tập trung hơn và tiện nghi nội thất đã tái định nghĩa lại khái niệm xe bán tải. Có thể, với những nâng cấp vượt trội hơn hẳn thế hệ cũ mà Triton đem lại thì Mitsubishi đang có những bước đi dài nhưng xét về góc độ thị trường thì Triton chưa tạo được khoảng cách lớn so với Navara hay xa hơn là Ranger vừa ra mắt thị trường. Để chiếm lại được sự yêu thích đã có từ rất lâu trước đó của Triton trên thị trường bán tải, Mitsubishi còn rất nhiều điều phải làm.